Hỏa Châu
Ôi đêm dài hỏa châu đốt sáng
Cho dòng máu trong con phai màu

Trịnh Công Sơn – Đêm Bây Giờ Đêm Mai
Sàigòn, 1967

Chúng nó ba đứa, thằng Tráng, thằng Tuân, thằng Thành, nhưng giống truyện Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (1), phải kể là bốn với cái đuôi là con nhỏ Thi, em thằng Thành, « thứ con gái mới lớn, điệu rơi điệu rụng, thế mà cứ đòi bám theo các anh», đấy là ý kiến của ông anh quý. Ba cậu năm ấy tuổi 18-19, coi trời bằng vung, chỉ còn một năm trung học là bước vào cuộc đời thực sự, đầy đủ mồ hôi và nước mắt. Con Thi phải chờ thêm 2 năm mới có thể rời ổ chim của nó, trường Couvent Des Oiseaux (2) với mấy cái mỏ xí xố tiếng Tây suốt ngày. Ba thằng thì học trường Jean-Jacques Rousseau (3) , nơi tụ tập con cái nhà giàu, kiểu bố là giám đốc công ty dược phẩm lớn như thằng Tuân, tuy vẫn lọt vài đứa con công chức như thằng Thành, hay gia đình nghèo nhưng Công giáo di cư như thằng Tráng. Chúng nó học cùng lớp trong nhiều năm, đến năm cuối Thành theo ban toán, Tuân ban khoa học thực nghiệm, và Tráng ban triết.

Bộ ba dính vào nhau như mấy ngón cùng một bàn tay, khắng khít chẳng khác có liên hệ ruột thịt. Chúng nó có thói gân cổ cãi nhau hết chuyện này qua chuyện nọ. Nhưng không đề tài nào mà không mang ra mổ xẻ chung. Không chuyện tình ở đứa nào, thật hay tưởng tượng, mà không phơi ra cho cả bọn. Mấy thằng gặp nhau hàng ngày. Căn phòng ổ chuột của Tráng nhiều lần chứng kiến ba chú nằm lăn ra ngủ dưới đất, khi đêm đã vào giờ giới nghiêm lúc nào không hay. Mỗi lần, bố mẹ lại tội nghiệp quý tử của mình phải thức khuya học thi. Đứa nào buồn bực điều gì thì hai đứa kia bị lây ngay, mất ăn mất ngủ làm như chuyện của mình. Thằng Tuân tư bản sẵn sàng tiếp tế mọi vật chất, từ rượu whisky mua ở PX (4) tới quần áo cà vạt đi nhảy đầm. Thằng Tráng ở một mình, phòng mở cửa bất cứ giờ nào cho những cơn khắc khoải bất ngờ của bạn. Và chỉ những hẹn hò của bộ ba mới làm thằng Thành hy sinh một cái boum (5) nhiều gái hay một buổi học Anh văn ở Hội Việt-Mỹ. Vô duyên là con Thi, chẳng can dự gì, cũng có lúc bị trăn trở bởi những ý tưởng sôi sục của anh Tuân, hay một bài thơ đầy ẩn dụ anh Tráng tặng nó.

*

Năm 1967 cuộc chiến đã cao độ, lính Mỹ đã nhiều, nhưng các thành thị miền Nam chưa biết những cuộc tổng tấn công của phe địch. Sàigòn cố che giấu bạo động và lo sợ dưới một lớp phồn thịnh giả tạo và bằng lối sống hưởng thụ bừa bãi. Khác gì khuôn mặt chát son chát phấn và nụ cười nhàu nát của một cô gái bán bar. Người ta ai cũng biết có những chiếc cam nhông chờ đêm tối để trở xác chết từ mặt trận về. Người ta đoán còn nhiều vụ bom plastic nổ như ở phòng trà Tự Do (6). Nhưng đã qua rồi những ngày biểu tình chống độc tài gia đình trị hay các cuộc đảo chính giữa tướng lãnh, và chưa đến giai đoạn có các vụ đốt xe lính Mỹ. Nghĩ cho cùng, một chàng công tử trường Tây như Tuân, nếu không quen Tráng và các mối quan hệ đáng sợ của nó, chắc cậu ấm chỉ đi lại những khu sang trọng của thành phố, và la cà ở Cercle Sportif Saigonnais (7). Có ra ngoài cùng lắm là đi tắm biển ở Vũng Tàu hay nghỉ hè ở Đà Lạt. Đất nước chỉ biết vậy, và hàng ngày tới trường lại học một thế giới văn minh ở rất xa, chẳng ăn nhằm gì tới thực tế của quê hương mình.

Chiến tranh chưa vào thủ đô, nhưng tin tức chiến trường ngày càng nhiều trên mặt báo. Trước đây, trong suốt mấy năm trời, Thành có một công việc hàng ngày, vừa làm việc hiếu vừa kiếm tiền túi. Đó là ngồi đọc báo Ngôn Luận cho ông ngoại của nó mắt đã lòa. Khoảng cuối chiều, hai ông cháu mang hai chiếc ghế xếp lên sân thượng ở nhà, vừa hứng gió vừa chung nhau đôi mắt đảo một vòng tình hình quốc tế và quốc nội. Những lúc đó, Thành thích tìm tin chiến sự, những thành tích của phe « Thế giới Tự do » (8). « …Sau cuộc ác chiến, Việt gian cộng sản để lại 16 xác chết, 9 tù binh, 2 khẩu đại liên, nhiều AK47 và vũ khí đủ loại, phía ta có 4 chiến sĩ hy sinh ». Thành càng đọc càng hăng, thấy những con số ngày này qua ngày khác cứ tăng dần như những kỷ lục bị hạ. Nó chẳng cần biết lúc nào ông ngoại nó đã thấy đủ chiến thắng, chỉ chờ nghe đoạn truyện Thủy Hử (9) đăng trong ngày.

Muốn lại gần chiến tranh hơn phải đến chỗ ở của Tráng. Vào sâu những con hẻm chằng chịt nằm ven sông Sàigòn. Cái xóm lao động này đã mấy lần cháy lớn, nhưng vẫn chẳng ai giải tỏa được để chiếm lại đất. Ở đó, có biết bao nhiêu gia đình thiếu vắng người cha hay một hai người con. Có biết bao nhiêu nông dân bỏ ruộng làng chạy loạn lên tỉnh. Đầy rẫy những mảnh đời tan nát và những câu chuyện kinh hoàng. Ngay trong gia đình Tráng, ông anh lớn đã trốn đi Long Xuyên rồi mà cuối cùng vẫn phải tình nguyện vào dân vệ tại chỗ, khi tờ khai sinh giả bị lộ. Xóm ngày càng nhiều thương phế binh và kẻ ngủ đường ngủ chợ. Tối đến, ai cũng nơm nớp lo các đội quân cảnh đến bắt lính. Bây giờ thanh niên biết chạy đâu, không còn có thể chui vào những chiếc chum lớn hứng nước mưa, hay lặn dưới các nhà cầu nhô ra sông. Vậy mà có hôm cô Thi không nhịn được tò mò, lấy cớ kiếm ông anh để đạp solex (10) đến coi nơi trú của Tráng. Đúng là điếc không sợ súng. Ra mở cửa, Tráng thấy Thi mặt xanh như tàu lá. Con nhỏ vừa thoát khỏi những cặp mắt soi mói của các thân xác nằm ngồi trên lối đi, và những lời phê bình thô tục của mấy đám côn đồ. Sẽ không bao giờ có lần khác, Tráng nghĩ vậy. « Thi đừng sợ, anh quen hết tụi nó mà, thật ra tụi nó chỉ có bề ngoài là dữ tợn thôi ». Tráng đâu kể thêm rằng mình đã từng làm trung gian thuê mướn vài gã, mang mã tấu và dao phay lên trường Jean-Jacques Rousseau đụng độ với băng du đãng xóm Tôn Đản. Dù sao, hôm đó Thi hiện ra trước mặt Tráng như một phép lạ, ai ngờ Chúa vẫn còn thương một đứa con đã quên đạo từ lâu.

*

Thời đó là thời của mọi nghịch lý, và những chuyện gian xảo vô liêm sỉ tràn ngập xã hội. Vô số thanh niên thấy tuổi trẻ của mình bị tước đoạt, đâm ra bất mãn và đầy ý tưởng nổi loạn. Trong ba đứa bạn, Tuân là kẻ có thái độ phản kháng dữ dội nhất. «Tao tự hỏi, ngày hôm nay còn được bao nhiêu sự giàu có lương thiện, không lợi dụng chiến tranh, không ăn cắp quyền sống của người khác ». Nó tuyên bố dứt khoát ly khai cái « giai cấp tư sản » của mình. Nó muốn đạt tới một ý thức chính trị cách mạng, khởi đi từ sự chống đối triệt để mọi giá trị của cái môi trường người ta dành cho nó. Trường Tây là biểu tượng đầu tiên phải đạp đổ, « tàn dư của chế độ thực dân đã đành, nhưng trước hết trường này là một ưu đãi dành cho con ông cháu cha, nó đào sâu thêm cách biệt giữa tầng lớp cầm quyền và các tầng lớp bị trị ». Cái năm cuộc biểu tình bài Pháp (11) đến bao vây trường, Tuân không ngại leo rào ra nhập đám đông hò hét đòi dẹp bỏ các cơ sở giáo dục của Pháp. Phải lâu sau đó, khi đã ở nước ngoài, Tuân mới hoạt động chính trị, nhưng hồi ấy nó là thằng đặt nhiều câu hỏi nhất về chiến tranh Việt Nam.

Từ chuyện đất nước Tuân bước qua tìm hiểu các tổ chức xã hội và hệ tư tưởng. Cái say mê chính trị tăng dần với số lượng sách đọc. Đọc đủ loại và không thứ tự, sách tây lẫn sách ta, sách lý luận và văn chương, từ Raymond Aron qua Louis Althusser, từ Nguyễn Văn Trung qua Nhất Hạnh, từ Emile Zola, Berthold Brecht qua Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hạnh, vân vân… Con Thi hoa cả mắt trước kiến thức của hắn, ngồi nghe thằng đại trí thức này không biết chán, cố gắng theo tới cùng các lập luận vô cùng phức tạp. Có khi con nhỏ xúc động vì những phát biểu bất chợt cao thượng, «tuổi trẻ chỉ lớn lên được bằng sự dấn thân vì tình người, khi biết dành những tình cảm đẹp nhất cho những kẻ yếu kém, những con người vong thân trong một xã hội áp bức », « Thi biết không, nhân vật trong La Condition Humaine (12), khi được hỏi tại sao đi đặt bom khủng bố, đã trả lời rằng kẻ khủng bố đầu tiên là cái chế độ chà đạp lên nhân phẩm người lao động ». Con Thi hiểu lõm bõm, nhưng đủ thấy anh Tuân hơn hẳn mấy thằng nhãi cùng tuổi nó, còn sặc mùi sữa mà đã dám tỏ tình với cô nàng.

*

Ông anh của Thi không thiên về những lời lẽ to tát cao siêu, nhưng hắn bàn cãi chính trị cũng hăng say chẳng kém gì khi nói về nhiều thứ khác, như văn chương nghệ thuật, thể thao, thục bi da hay đánh phé. Chủ trương của Thành là cái gì cũng phải biết sơ sơ thì cuộc đời mới ra hồn. Làm sao sống cho hết mình, đón nhận mọi kinh nghiệm, yêu ghét tới cùng. Sách gối đầu của Thành là cuốn Les Nourritures Terrestres (13), một bản tuyên ngôn kêu gọi đốt sách, tự giải phóng mình khỏi rằng buộc của đạo đức xã hội, tận hưởng tức thì từng giây phút của hiện tại. « Tụi mày phải bung ra, lấy sự tìm kiếm cái mới làm lẽ sống, vứt đi giáo dục Khổng Lão đè nén cá nhân, thoát hẳn ra ngoài tháp ngà trường Tây, đừng tự trói mình bằng những thói quen bảo thủ ». Cho tới nhảy đầm cũng phải bỏ mấy surprise-parties của bọn Marie Curie (14) hiền như bụt. Phải đến những chỗ có dân tứ xứ ăn chơi xả láng, nếu gặp đánh lộn thì chỉ việc chạy cho nhanh. Nơi quen thuộc của Thành là cái bãi giữ xe của một trường tư thục lớn, tối cuối tuần biến thành một chợ nhảy cho cả trăm người. Cứ thế cho tới ngày ở đó có mấy anh chàng biệt động quân bất mãn, làm nổ tung lựu đạn cho đáng kiếp cái hậu phương quá vô tư.

Thành lúc nào cũng có một mối tình để tâm sự với bạn bè. Dĩ nhiên nó chê loại con gái trường Tây, kể cả mấy nàng váy cực ngắn và giày cổ cao kiểu Sylvie Vartan. Không, phải là một người đẹp trường Gia Long áo dài trắng trong, hoặc một thiếu nữ đứng bán hàng ngoài chợ tay thơm mùi trái cây. Đọc xong Vòng Tay Học Trò (15) Thành si mê vô vọng một chị ký giả hơn nó cả chục tuổi. Nhưng lúc thất tình nặng hắn vẫn tâm sự, « Tao nghĩ khổ vì tình yêu cũng là một kinh nghiệm sống thật, đáng giá hơn những ngày tháng vô vị của kẻ sợ thử lửa. Một cuộc sống bình thản sẽ trở thành khô héo. Nói cho hai đứa mày biết, tao nhất định không bắt chước ông già tao. Ông luôn luôn đi tìm sự an toàn. Lo lập gia đình sớm để đừng trễ chuyện con cái, chọn nghề công chức để được yên thân, lúc nào cũng làm giống thiên hạ cho chắc chắn không sai lầm. Còn lâu tao mới sống như thế ».

*

Càng không thể hình dung một cuộc sống chuẩn mực cho Tráng. Một cá nhân chẳng bao giờ chân đụng đất, cứ tự vẽ lấy thực tế cho riêng mình, tình cảm lúc nào cũng quá độ. Tráng khác hai bạn mình ở chỗ không ghét trường Tây. Giáo dục Pháp đã dẫn nó đến với những nhà văn lớn như Victor Hugo, Aragon, Céline, Jean-Paul Sartre, Albert Camus. Tráng nó lớn lên trong các trang tiểu thuyết và các bài thơ. Nó thở bằng không khí của những vườn văn. Nó lang thang ở những chân trời của tưởng tượng. Đối với nó, « thực tế chỉ là hình ảnh nghèo nàn của những ước mơ biến thành thỏa hiệp ». Một điều kỳ lạ, có ai như thằng Tráng này, nó nhìn hàng ngày những cảnh tượng của một thực tế sôi bỏng, vậy mà đầu óc nó vẫn bay bổng tận đâu.

Tráng làm kẻ hướng dẫn cho hai thằng kia khám phá văn chương Việt Nam đương thời, trên con đường tìm về nguồn của chúng nó. Bắt hai ông Tây con phải đọc Võ Phiến, Phạm Công Thiện, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử. Thi cũng nhập phong trào, bỏ thơ Prévert qua thơ Bùi Giáng. Năm 1967 là năm Tráng bắt đầu sáng tác. Một hôm, tự nhiên nó nghĩ về cô em gái của bạn nhiều hơn thường lệ, và mấy dòng thơ hiện ra từ từ như một điệu khúc tình cờ bắt được. Rồi cũng cô Thi này trở thành một nhân vật tuyệt vời trong truyện ngắn đầu tiên của Tráng ta. Cái thằng chỉ học được vài giờ văn chương Việt Nam ở trường, lại là những giờ trưa bạn bè thường dành để ngủ và tiêu cơm, thế mà bây giờ nó đòi làm nhà văn mới chết chứ ! Nhưng anh chàng Tráng có một uy tín ghê gớm với nàng Thi. Con nhỏ chắc chắn một cái đầu nghệ sĩ như vậy là cả một kho tàng những cái đẹp trên đời này. Nó nào ngờ chính mình cũng hiện diện trong đó như một thần tượng ở ngoài mọi tầm với.

Và may hơn nữa, Thi không biết rằng ở cả ba thanh niên nàng phục, các lý tưởng cao đẹp lẫn lộn với những nhu cầu suy đồi mang ít nhiều tính bạo động. Trong mắt họ, nhiều giá trị đang chảy nghĩa dần, bất kể sự ồn ào của những kẻ đạo đức giả cố duy trì một trật tự xã hội đã rệu rã. Họ muốn vượt qua mọi cấm đoán để nhìn cho hết sự thật, xóa cho sạch những ảo tưởng còn lại ở mình. Không chừng có một cái giá họ phải trả để trưởng thành vào những năm ấy.

*

Trò trụy lạc đầu tiên của Thành, Tuân và Tráng là uống rượu để say. Ruợu đối với chúng nó không là giải trí hay một cách làm đàn ông. Rượu là phương tiện để trút bỏ bất mãn trong người. Rượu giúp lời nói bắn phá vào các điều dơ bẩn thối tha nhìn thấy. Phải đi tới tận cùng cơn say, để đến một nơi giải thoát, ở đó không còn cần thận trọng từ tốn, tiếng cười tiếng khóc có thể bật lên chân thật. Rượu loại nào cũng được, thùng Bia 33 hay chai whisky, hết anh chàng Johnny Đi Bộ thì qua nếp than, hết nếp than thì sợ gì mấy loại cồn pha trộn bán chui ở chợ trời. Ban ngày ba đứa ngồi quán nhậu bình dân, chúng nó tìm những quán thật rẻ để uống được nhiều, có khi đồ nhấm chỉ vỏn vẹn dĩa xương cá ghiền vụn. Ban đêm chui vào nhà thằng Tráng cho có chỗ kéo dài đến sáng.

Căn phòng Tráng thiếu đủ thứ, phải trồng chất sách lên nhau để làm ghế ngồi. Buổi nhậu bắt đầu bằng những chiếc ly cụng vào nhau đàng hoàng, nhưng hãy dẹp đi mấy câu chúc tụng hình thức. Rồi bắt đầu những tranh cãi về đủ mọi đề tài. Chính trị, gái, triết lý, một trận đá banh, một vấn đề văn hóa, vân vân. Chuyện gì cũng biến thành phân tích, tổng hợp, lý luận, phản biện, khẳng định, phổ cập. Thể nào cũng có phần thằng Tuân ngập lội trong mấy lý thuyết chính trị, thằng Tráng mắt sáng ngời vì một tuyệt tác văn chương, thằng Thành bênh vực tới hết nước bọt một hiện tượng thời trang bị coi là vớ vẩn. Nói nhiều khô cổ, lại phải uống, các ly sau đó cạn đi càng lúc càng nhanh. Những điếu Mélia vàng, Bastos đỏ rít không ngừng, chai sẽ tu thẳng không cần ly. Cho tới khi rượu thấm sâu, làm rã rời mọi suy nghĩ, khi ấy chẳng còn vấn đề nào quan trọng, nói gì cũng bằng thừa. Thằng Thành sẽ đòi cây đàn ghi ta, rồi để chọc tức bạn, giọng thư sinh của nó sẽ đi vài bản nhạc lính tráng, « anh là lính đa tình / tình non sông núi biển… », « một trăm em ơi / chiều nay một trăm phần trăm… », « viết tên em trên ba lô nặng chĩu / bước quân hành dừng chân đồi hoa tím… », « em hậu phương / còn anh nơi tiền tuyến… ». Bàn tay run rẩy của thằng Tráng sẽ nguệch ngoạc trên giấy vài câu chữ điên cuồng nó gọi là « những vết hằn trên thân thể của tình thương ». Thằng Tuân sẽ lục tìm một cuốn sách có nội dung xứng đáng làm gối cho nó ngả mình. Từ đó bất mãn lại trở về. Vì những chuyện tình không đẹp như trong nhạc thơ. Vì chẳng mấy ai bây giờ còn tử tế với nhau. Vì cái loạn của xã hội đã lan tràn vào óc vào tim con người. Lời nói quay ra chửi đời. Không gian chung quanh cứ mờ dần, thằng nào đó nói gì nghe không còn rõ, chẳng biết có hay không một tiếng khóc, rồi mắt bắt đầu nhìn thấy những bức tường chuyển động, cuối cùng cơn nôn mửa ập đến như một khoái lạc tột cùng, chẳng kịp dìu nhau ra tới sông đằng sau nhà.

*

Thành, Tuân và Tráng hay kể cho nhau những câu chuyện lừa dối giữa đàn ông và đàn bà. Những quan hệ giả dạng tình yêu. Dứt khoát không thể có tình yêu khi cái chết là nỗi ám ảnh thường trực, khi lối sống vội chỉ có những trao đổi nhất thời, khi người ta giành giựt nhau mọi thứ để tồn tại. Từ đó, ba đứa chúng nó chỉ biết yêu những hình bóng thiên thần do mình tưởng tượng. Với con gái đời thật chẳng còn gì khác ngoài thèm muốn thể xác. Năm 1967 là năm ba cậu rủ nhau « xuống xóm thăm chị em ta ». Một đường tắt để trưởng thành cho xong. Cũng có cái thu hút của mục đồi bại tuyệt đối, không nửa vời.

Đó là những buổi trưa cuối tuần, ở ngoài hẳn thành phố, chỗ bắt đầu những con đường đất lồi lõm duỗi dài giữa những cánh đồng khô. « Xóm » là vài căn nhà mái tranh tụm lại hiền hậu giữa một không gian thoáng tĩnh. Những khách tuổi Thành, Tráng và Tuân không gây ngạc nhiên, chỗ này đủ loại thế hệ, giống nhau ở túi tiền giới hạn. Ba chàng thanh niên đã quen hầu hết các bà chị, ít thay đổi hơn các cô gái. Chị Hai xưng hô với họ là má và con, chị Búp lần nào cũng có một chút kẹo gừng cho ba cậu khi về, chị Huệ chỉ thích phết đít thằng Tuân, « con trai gì mà trắng như bột gạo ». Ba đứa làm vẻ ung dung thoải mái. Trước hết là ngồi xuống gọi bia hơi và hột vịt lộn. Thỉnh thoảng được một cô gái đến phẩy quạt lá, có lẽ cần khô mồ hôi trước cuộc cọ sát xác thịt. Chúng nó bắt chuyện với những kẻ ngồi gần, một anh lính vừa thoát địa ngục, một nhà tiểu thương tự thưởng mình nhân một lần trúng mối, hay một thiếu nữ quả quyết chỉ làm việc ở đây một thời gian ngắn. Thủng thẳng rồi thằng Thành sẽ đòi một người yêu nhất định, thế mới đúng là khách quen thuộc, em Tơ với cái cười toe toét hay em Tố Như mắt buồn vời vợi. Hai thằng kia sẽ ngắm nghía xem thân thể nào đáng thử, đừng quá gân guốc, tuổi tác không quan trọng, bộ ngực thì thường không đến nỗi nào ở mấy cô nông dân. Sau đó thằng con trai theo cô gái vào một không gian nhỏ, không thể gọi là phòng vì sàn là đất, và chẳng có gì ngoài tấm phản trải chiếu và cái chậu nhôm sẵn nước với chiếc khăn lau. Cô gái không son phấn, không đồ lót dưới bộ bà ba, cô sẽ không nói em yêu anh và không cho hôn môi. Nhưng cậu khách trẻ sẽ được trọn vẹn một thân thể đàn bà, nhẫn nại, thông cảm, đôi khi trìu mến. Đối với cậu ta, người phụ nữ ấy không có khuôn mặt, quá khứ và tương lai cũng không, nhưng nàng chịu đón nhận tất cả thèm muốn lẫn hằn học đến từ một thanh niên thân mật trong một lúc ngắn. Miễn là hắn đừng khó chịu vì tiếng radio mở lớn gần đó, hay giọng ngâm cải lương của cô gái đang làm tình ở phòng bên cạnh. Mỗi lần như vậy, dưới những mái tranh che mưa che nắng, ba đứa bạn lại tìm được một nơi đổi chác không vắng hẳn tình người, bến bờ cho những tâm trạng lạc loài.

*

Buổi tối nóng nực mấy đứa thường leo lên sân thượng nhà Thành. Ở chỗ này không được phép say sưa và tranh cãi lớn tiếng, nhưng Tuân và Tráng được sự có mặt của Thi. Con nhỏ luôn luôn lấy cớ này cớ nọ xuất hiện, nói chỉ ngồi vài phút vì bận học, sau đó nhập cuộc luôn. Khu nhà Thành không còn cái yên tĩnh trước đây của một khu gia đình công chức. Vài chỗ hẹn cho lính Mỹ đã len lỏi vào giữa chẳng biết từ lúc nào. Nhưng trên sân thượng không khí nháo nhác của đường phố bớt hẳn. Những con hẻm chật chội phía dưới nhường chỗ cho một bàu trời bao la. Ba thằng về đây để tâm hồn lắng dịu, để kể cho nhau những cuộc phiêu lưu lẻ, chia sẻ với nhau những tâm tư chẳng giữ được cho riêng mình. Có khi chỉ cần ngồi bên nhau trong ánh sáng mong manh của một chiếc đèn dầu, hưởng những ngọn gió thoảng, hát nhỏ một bản tình ca cho riêng một người. Cả những giây phút im lặng cũng quý. Những lúc đó, hơi thở của đêm nghe sát gần, ấm áp như tình bạn đã đọng lại nơi này.

Vậy mà yên lặng chẳng mấy khi được hoàn toàn. Thỉnh thoảng, ở một hai nhà cách đó, có những cửa sổ để vọng ra ngoài tiếng đùa nghịch, tiếng cười, tiếng rú của mấy chàng lính Mỹ và mấy cô gái tiếp đãi. Những lúc đó, thằng Tuân đứng vụt dậy, nó chạy từ góc này qua góc kia, nhìn cho bằng được khối thịt đồ sộ của thằng đàn ông ngoại quốc, thịt trắng thịt đen, đè lên thân thể nhỏ bé của cô gái Việt. Chỉ có Thi theo dõi Tuân, cứ chực đứng lên cản hắn rồi lại thôi, tất cả xót xa lộ rõ trên mặt nàng. Thành mặc kệ, nó bận lắng tai nghe tiếng ì ầm của đại bác hay bom rơi ở xa, « còn xa lắm chúng mày ơi, để tao đoán bao nhiêu cây số nhé, xem thử xa hay gần hơn hôm trước ». Sau đó, làm như Thành thất vọng vì khoảng cách không giảm nhanh hơn, cái khoảng cách bắt nó chịu đựng mãi những ngày tháng không thật. Tráng thì mải nhìn về những phía có hỏa châu lùng địch hay bảo vệ thành phố. Những đốm sáng lóe ra trong vài giây, rồi sót lại những đường rạch trên da trời trở về dần bóng tối. Tráng đã có lần tức giận, « Tại sao phải nằm mơ mới thấy được một đêm bình thường, chỉ có ánh sáng của trăng sao và âm thanh của gió ? » Năm ấy chẳng có câu trả lời. Trên sân thượng nhà Thành đêm như vậy, đau tiếng đại bác, tiếng bom, tiếng cười khả ố, và loang lổ vết sáng của những ngọn hỏa châu. Khiến ba chàng thanh niên và cô gái hoang mang về số phận may mắn của mình. Tiếng đàn giọng hát những đêm đó nặng cả một nỗi niềm u uất. Trước đây họ thích những bản nhạc tiền chiến, như một cách chối từ hiện tại. Nhưng năm 1967 họ không còn hát Văn Cao và Đoàn Chuẩn-Từ Linh. Họ chuyển qua các Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn, những bản nhạc đã đưa sự thật chiến tranh vào ý thức của những thanh niên đứng ngoài cuộc.

*

Cuối năm cả ba đứa bạn đều đậu tú tài. Đối với Tuân, đi du học sau đó là chuyện đương nhiên, như đối với đa số bọn học cùng lớp. Chính phủ cấm đi Pháp thì nó đi Thụy Sĩ, rồi sẽ tìm cách qua Paris, chọn một trường khoa học xã hội tiến bộ. Qua bên đó nó sẽ được đọc Karl Marx. Thành đậu cao vì trúng tủ nhiều môn, Anh văn nó lại có sẵn bằng, nên được học bổng đi Mỹ. Tráng ở lại, có lẽ sẽ ghi tên vào Đại học Vạn Hạnh. Chẳng phải thằng Công giáo di cư muốn đổi qua đạo Phật, nhưng nó phục một vài khuôn mặt trí thức trong môi trường đại học này. Thế là ba thằng bạn thân sẽ mỗi đứa một con đường. Tráng nói « hợp tan là lẽ vô thường của mọi chuyện trên đời ». Cậu ta đã bắt đầu phát ngôn như một Phật tử chính hiệu.

Tráng đứng ra tổ chức ở nhà lần họp mặt cuối cùng, hai ngày trước buổi Tuân lên máy bay. Thi nhanh nhẩu tình nguyện làm bánh kem kiểu Pháp đem lại (ai cũng biết là mẹ nó sẽ lo), nên vấn đề cô ả có mặt hay không chẳng còn đặt ra. Chúng nó đã đồng ý với nhau từ đầu, nhất định sẽ không là một buổi chia ly bi đát, mà là dịp chào mừng cuộc đổi đời của mỗi đứa. Căn phòng Tráng hôm ấy chính nó cũng không nhận ra, sạch đến độ giả dối, có tới cả một lọ hoa Thi cho mượn. Đồ ăn là các món thịt chó thơm phức, mua ở quán « Sống Trên Đời » trước mặt Viện Hóa Đạo Phật giáo. Thành tuyên bố cô em gái hôm nay ăn chay để giữ eo. Thức uống đặc biệt cao cấp, Tuân xin được của bố mấy chai rượu đỏ Bordeaux và một chai Chivas 15 năm. Ngồi ăn dưới đất nhưng có bát dĩa sang trọng của nhà Tuân và khăn vải chùi miệng như Tây.

Có lẽ vì vậy mà không khí lúc đầu không mấy tự nhiên. Chủ nhà hơi quá vui, trong khi cô khách duy nhất mặt như đưa đám. May thay, món rựa mận làm mọi người thoải mái dần. Những câu chuyện tiếu lâm được mang ra, càng lúc càng bậy. Con Thi cười khanh khách, cứ đòi kể thêm. Ăn xong thì đến mục bất ngờ Tráng dành cho bạn. Nó ra ngoài một lúc rồi trở vào với ba đàn ông đầu trâu mặt ngựa. Dẫn đầu là một gã đầu trọc, được giới thiệu là Bảy Búa, chúa đảng của xóm này, mới ở tù ra được vài tháng. Anh Bảy cười hiền lành và nói nhỏ nhẹ, « Được tin hai anh sắp đi ngoại quốc, tụi em vô chúc các anh qua đó học cao hiểu rộng, cho bọn Mỹ nó hết khi rẻ dân mình. » Phái đoàn vui lòng ngồi xuống uống một ly, chỉ một ly thôi, gọi là ly tình nghĩa. Đủ để con Thi bị thôi miên bởi những vết sẹo và hình xâm trên da họ. Khi còn lại bốn đứa, chúng nó ngồi im lặng một hồi lâu. Im lặng lần này như muốn giữ lại thời gian. Như nói lên hết sự thừa thãi của những bày tỏ tình cảm. Rồi chúng nó thử tiên đoán cho nhau tương lai của mỗi đứa. Chẳng đứa nào sẽ tập trung làm giàu hay giành địa vị trong xã hội. Chẳng đứa nào sẽ tìm cho bằng được cách khôn ngoan hơn thiên hạ. « Tuân, những lý tưởng ở mày nhiều lúc làm mày thất vọng về con người, nhưng chúng sẽ cho đời mày lúc nào cũng đầy đủ ý nghĩa », « thằng Thành lục lọi sự sống ở khắp nơi, nhờ vậy mà thế giới của nó sẽ rộng ra mãi với những gì tiếp nhận được từ từng cá nhân nó gặp », « Tráng này, hành trình của mày chỉ có thể cô đơn, nhưng mày sẽ tự do hơn nhiều kẻ khác, và cái tự do này quý chẳng kém bất cứ niềm hạnh phúc nào mày thiếu »… Sau đó mối đứa tìm một bản nhạc vui để hát. Nhưng khó quá, bài nào chọn cũng buồn làm sao, cứ nửa chừng lại bỏ. Cho tới khi Thi hát :

Xin cho mây che đủ phận người
Xin cho tôi một sáng trời vui
Xin cho tôi đến tận nụ cười
Cho tôi quên một nấm mồ tươi
Xin cho tôi xin vạn lần rồi
Một góc này chỉ biết rong chơi
Xin cho tôi yên phận này thôi…
(16)

Giọng ba thằng con trai hòa vào giọng đứa con gái khi lời hát bắt đầu nhem nhòa. Chỉ lúc đó chúng nó mới hiểu, tình bạn này sẽ không bao giờ gặp lại. Tình bạn này thuộc riêng về cái thời những trái hỏa châu làm quên đi các vì sao trong đêm.



(1) tựa dịch tiểu thuyết kiếm hiệp Les Trois Mousquetaires của nhà văn Pháp Alexandre Dumas (1802-1870), ra năm 1844
(2) trường trung học nữ của Công giáo Pháp
(3) bây giờ là trường trung học Lê Quý Đôn
(4) cửa hàng của quân đội Mỹ
(5) buổi khiêu vũ trong giới trẻ
(6) phòng trà số một thời đó, nằm ở đường Tự Do, tên cũ của Đồng Khởi
(7) sau này là Câu lạc bộ Công nhân Lao động , đường Nguyễn Thị Minh Khai
(8) phe « Thế giới Tự do » ở miền Nam gồm có quân đội Mỹ, Việt Nam Cộng hòa, Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan
(9) truyện của Thi Nại Am và La Quán Trung, kinh điển trong văn học Trung quốc, viết vào thời Nguyên hoặc thời Minh
(10) loại xe đạp có gắn động cơ phía trước
(11) năm 1966, tổng thống Pháp Charles De Gaulle, trong diễn văn đọc ở Pnom Penh, lên án sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam
(12) tiểu thuyết của nhà văn Pháp André Malraux (1901-1976), ra năm 1933 ; nhân vật chính là một thanh niên Trung quốc theo chủ nghĩa vô chính phủ
(13) tiểu thuyết của nhà văn Pháp André Gide (1869-1951), ra năm 1897, viết lại năm 1935
(14) trường trung học Pháp, năm 1967 còn dành riêng cho học trò nữ
(15) tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng, kể về tình yêu giữa một cô giáo và học trò của mình, đã từng làm chấn động dư luận
(16) Bài Xin Cho Tôi của Trịnh Công Sơn, sáng tác năm 1965

© Vũ Hồi Nguyên, 2005